I. Chế tài pháp lý đối với hành vi vứt bỏ con ngay sau khi sinh
1. Xử phạt vi phạm hành chính
Căn cứ khoản 2 Điều 21 Nghị định 130/2021/NĐ – CP, mẹ cố ý vứt bỏ con ngay sau khi sinh có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.
2. Truy cứu trách nhiệm hình sự
2.1. Tội danh
Theo Điều 124 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), mẹ cố ý vứt bỏ con ngay sau khi sinh có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Vứt bỏ con mới đẻ”.
2.2. Khung hình phạt
Mẹ cố ý vứt bỏ con ngay sau khi sinh có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2.3. Cấu thành tội phạm
2.3.1. Khách thể
Người phạm tội xâm phạm xâm phạm trực tiếp đến quyền sống của con người, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của trẻ em.
Đối tượng tác động của tội phạm là con 07 ngày tuổi do người phạm tội đẻ ra.
2.3.2. Mặt khách quan
a. Hành vi khách quan
Hành vi khách quan của tội phạm là người mẹ vứt bỏ con 07 ngày tuổi do chính họ đẻ ra ở một địa điểm bất kỳ như nghĩa trang, cổng trường học, cổng bệnh viện, cổng nhà thờ, nhà chùa,...
b. Hậu quả
Hậu quả bắt buộc của tội phạm là đứa con bị vứt bỏ chết. Nếu hậu quả này chưa xảy ra thì chưa cấu thành tội “Vứt bỏ con mới đẻ”.
2.3.3. Mặt chủ quan
a. Lỗi
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý gián tiếp. Người mẹ nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây nguy hiểm cho tính mạng của con nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội, tuy không mong muốn hậu quả của tội phạm xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc để hậu quả xảy ra.
b. Động cơ
Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội do chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt khác.
Nếu người mẹ vì một lý do nào khác mà vứt bỏ con 07 ngày tuổi do mình mới đẻ ra thì không thuộc tội phạm này.
2.3.4. Chủ thể
Chủ thể của tội phạm là người mẹ – người trực tiếp sinh ra đứa trẻ, từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Đây là đặc điểm bắt buộc của tội phạm.
Các thành viên khác trong gia đình hay bất kỳ người nào khác, nếu thực hiện hành vi vứt bỏ trẻ 07 ngày tuổi sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh này mà có thể bị xem xét về các tội danh khác tùy thuộc vào hậu quả và bản chất hành vi.
II. Phân biệt với các tội phạm khác
1. Phân biệt với tội “Giết con mới đẻ”
Sự khác biệt cốt lõi giữa tội “Vứt bỏ con mới đẻ” với tội “Giết con mới đẻ” nằm ở ý định của người mẹ, hay còn gọi là lỗi (mặt chủ quan của tội phạm), cụ thể như sau:
Tội vứt bỏ con mới đẻ: Người mẹ không có ý định tước đoạt mạng sống của con, chỉ muốn chối bỏ, trốn tránh trách nhiệm nuôi dưỡng nên đã vứt con ở một nơi nguy hiểm. Hậu quả đứa trẻ chết là điều người mẹ biết trước nhưng vẫn để mặc cho nó xảy ra.
Tội giết con mới đẻ: Người mẹ có ý định tước đoạt mạng sống của con ngay từ đầu và thực hiện hành vi để giết chết đứa trẻ.
Do đó, dù cả hai tội danh đều có thể dẫn đến cái chết thương tâm của đứa trẻ, nhưng ý chí của người mẹ là yếu tố quyết định để cơ quan pháp luật truy cứu tội danh phù hợp.
2. Phân biệt với tội “Giết người”
Tiêu chí | Vứt con mới đẻ | Giết người |
---|---|---|
Khách thể | Quyền sống, quyền được chăm sóc và bảo vệ của trẻ em | Quyền sống của con người |
Đối tượng tác động | Trẻ em dưới 07 ngày tuổi | Con người đang sống |
Mặt khách quan | Vứt bỏ con mới đẻ ở bất kỳ địa điểm nào dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết | Dùng mọi thủ đoạn nhằm tước đoạt mạng sống của người khác |
Mặt chủ quan | Lỗi cố ý gián tiếp. Người mẹ biết hành vi vứt bỏ có thể tước đoạt mạng sống của con mình nhưng vẫn để mặc hậu quả xảy ra | Lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp. Người phạm tội mong muốn hoặc để mặc cho cái chết của nạn nhân xảy ra |
Mục đích | Trốn tránh trách nhiệm nuôi dưỡng; không có ý định giết người ngay từ đầu | Tước đoạt mạng sống của người khác; cái chết của nạn nhân là mục đích mà người phạm tội mong muốn hoặc chấp nhận |
Động cơ phạm tội | Người mẹ phạm tội do chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc hoàn cảnh khách quan đặc biệt khác | Tội danh này không đòi hỏi phải có động cơ nhất định |
Chủ thể | Người mẹ trực tiếp sinh ra đứa trẻ bị vứt bỏ | Người từ đủ 14 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự |
III. Trường hợp người mẹ có dấu hiệu trầm cảm thì có phải chịu trách nhiệm hình sự?
Theo Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Vì vậy, nếu người mẹ thực hiện hành vi vứt bỏ con ngay sau khi sinh trong khi có dấu hiệu mắc bệnh trầm cảm, dẫn đến mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi thì có thể sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra, người mẹ vứt bỏ con ngay sau khi sinh có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Vứt bỏ con mới đẻ”. Ngoài ra, trường hợp chứng minh được người mẹ có ý định tước đoạt mạng sống của con ngay từ đầu và thực hiện hành vứt bỏ con ngay sau khi sinh ở nơi hoang vắng/nguy hiểm với mong muốn làm đứa trẻ chết thì có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Giết con mới đẻ”.
Thông tin liên hệ
CÔNG TY LUẬT TNHH DL PINNACLE
Địa chỉ: Tầng 3, 18A/76 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh
Hotline: 0914.491.911
Email: info@dlpinnacle.vn
Website: https://www.dlpinnacle.vn