1. Bị hại trong vụ án hình sự là ai?
Theo Điều 62 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do hành vi phạm tội hoặc hành vi đe dọa gây ra.
2. Thiệt hại về sức khỏe là gì?
Thiệt hại về sức khỏe là thiệt hại phát sinh do sức khỏe bị xâm phạm, được hiểu là những tổn thất, mất mát về mặt vật chất cũng như tinh thần mà người có hành vi gây thiệt hại gây ra cho người bị thiệt hại.
3. Những khoản thiệt hại về sức khỏe và mức bồi thường
Theo Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 (được hướng dẫn bởi Điều 7 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP), thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
•Chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh cho người bị thiệt hại;
•Chi phí thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đến cơ sở khám chữa bệnh và trở về nơi ở;
•Chi phí bồi dưỡng sức khỏe cho người bị thiệt hại;
•Chi phí phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút;
•Thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút của người bị thiệt hại:
•Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, bao gồm tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ (nếu có);
•Phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị;
•Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại gánh chịu;
•Các thiệt hại khác do luật quy định.
4. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe
Căn cứ Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 (được hướng dẫn bởi Điều 2 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP), trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau:
•Có hành vi trái pháp luật xâm phạm sức khỏe của người khác;
•Có thiệt hại thực tế xảy ra;
•Hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại và thiệt hại là hệ quả của việc thực hiện hành vi trái pháp luật đó.
5. Bị hại trong vụ án hình sự có được bồi thường thiệt hại về sức khỏe không?
Căn cứ Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra, nhưng họ cũng có nghĩa vụ phải chứng minh yêu cầu đó có căn cứ và hợp pháp.
Vì vậy, nếu bị hại trong vụ án hình sự phải gánh chịu những thiệt hại về sức khỏe do tội phạm gây ra và chứng minh được có căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì sẽ được bồi thường thiệt hại về sức khỏe.
6. Quy định về cách giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự
Theo quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và điểm d khoản 1 Điều 3 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP, việc giải quyết vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự phải được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự.
Tuy nhiên, trường hợp chưa có điều kiện chứng minh vấn đề bồi thường thiệt hại và việc bồi thường thiệt hại không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án thì vấn đề bồi thường có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
7. Người phạm tội đã tự nguyện bồi thường thiệt hại thì có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
7.1. Quy định chung
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, việc người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại chỉ được xác định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không phải là căn cứ miễn trách nhiệm hình sự. Do đó, người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự dù đã tự nguyện bồi thường thiệt hại.
7.2. Trường hợp đặc biệt
Người phạm tội đã tự nguyện bồi thường thiệt hại có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong các trường hợp sau:
Một là,
thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, được bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.
Hai là,
thực hiện các tội phạm thuộc trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và được bị hại rút yêu cầu khởi tố, trừ trường hợp có căn cứ xác định bị hại bị ép buộc, cưỡng bức rút yêu cầu.
Ví dụ minh hoạ
Anh A (tài xế xe máy) có xô xát với anh B (tài xế xe ô tô), anh A bị anh B đánh tới tấp vào đầu, tỷ lệ thương tật là 11% theo khám nghiệm thương tật của cơ quan cảnh sát điều tra, đủ cơ sở để anh B bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Căn cứ theo Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì tội phạm trên thuộc trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại. Do đó, anh A đã yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố vụ án hình sự đối với anh B.
Sau khi bị khởi tố, anh B tự nguyện bồi thường cho anh A số tiền 1.000.000.000 đồng và được anh A đồng ý, hai bên lập biên bản hòa giải và anh A đã rút yêu cầu khởi tố anh B. Vì vậy, anh B không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa.
Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng do hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức gây ra là quyền cơ bản của mỗi công dân được pháp luật bảo hộ. Do đó, bị hại trong vụ án hình sự sẽ được bồi thường thiệt hại về sức khỏe nếu họ chứng minh được có căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường. Việc bồi thường được thực hiện dựa trên nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên, trường hợp các bên không thể thống nhất mức bồi thường thì sẽ áp dụng theo quy định của pháp luật.
Thông tin liên hệ
CÔNG TY LUẬT TNHH DL PINNACLE
Địa chỉ: Tầng 3, 18A/76 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường Đa Kao, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
Hotline: 0914.491.911
Email: info@dlpinnacle.vn
Website: https://www.dlpinnacle.vn