I. Vấn Đề Đặt Ra
Trong khoa học luật hình sự, hành vi tự nguyện chấm dứt việc phạm tội trước khi tội phạm hoàn thành thể hiện sự chuyển biến tích cực trong ý chí của người thực hiện.
Việc ghi nhận chế định này không chỉ phản ánh tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam, mà còn hướng tới giáo dục, khuyến khích sự hối cải, hạn chế hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc phân định giữa “tự ý chấm dứt” và “bị buộc chấm dứt” vẫn gây nhiều tranh luận, đặc biệt trong các vụ án có yếu tố đồng phạm hoặc hành vi chuẩn bị phức tạp.
II. Cơ Sở Pháp Lý Của Việc Tự Ý Nửa Chừng Chấm Dứt Hành Vi Phạm Tội
1. Quy định của Bộ luật Hình sự
Điều 16 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:
“Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là người tự nguyện không tiếp tục thực hiện tội phạm tới cùng, tuy không có gì ngăn cản.”
- (i) Sự tự nguyện, dứt khoát của người phạm tội;
- (ii) Không có yếu tố khách quan nào cản trở.
2. Hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao
Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986, “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985 về giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt”.
Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/4/1989, “Hướng dẫn việc áp dụng pháp luật đối với trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm”.
Hai nghị quyết này là nguồn pháp lý quan trọng định hướng cho việc nhận diện và áp dụng chế định tự ý nửa chừng chấm dứt trong thực tiễn xét xử.
III. Dấu Hiệu Nhận Diện Hành Vi Tự Ý Chấm Dứt
1. Tự nguyện dừng hành vi
Người phạm tội chủ động dừng lại, không tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội tới cùng, xuất phát từ ý chí chủ quan, không bị tác động hay ép buộc.
Sự chấm dứt này phải vĩnh viễn, không mang tính tạm thời, và thể hiện qua hành động cụ thể.
2. Không bị ngăn cản bởi yếu tố bên ngoài
Nếu việc dừng hành vi là do bị phát hiện, truy đuổi, hay gặp trở ngại khách quan (ví dụ: công cụ hỏng, bị bắt giữ, bị nạn nhân chống trả) thì không được xem là tự ý chấm dứt.
3. Ví dụ minh họa
B chuẩn bị dao để giết người, nhưng khi đến nơi, nhớ lại ân nghĩa cũ nên tự nguyện từ bỏ ý định. Đây là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
Ngược lại, nếu B bị phát hiện và buộc phải dừng lại, hành vi đó không còn yếu tố “tự nguyện”.
IV. Phân Biệt Với Phạm Tội Chưa Đạt
1. Điểm tương đồng
Cả hai trường hợp đều có điểm chung: tội phạm chưa hoàn thành, hậu quả nguy hiểm chưa xảy ra.
2. Khác biệt cơ bản
| Tiêu chí | Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội | Phạm tội chưa đạt |
|---|---|---|
| Nguyên nhân | Do ý chí tự nguyện của người phạm tội | Do nguyên nhân khách quan, ngoài ý muốn |
| Giai đoạn | Xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị | Xảy ra ở giai đoạn thực hành |
| Trách nhiệm hình sự | Được miễn tội định phạm | Phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chưa đạt |
| Cơ sở pháp lý | Điều 16 BLHS 2015; Nghị quyết 02-HĐTP-TANDTC/QĐ (1986) | Điều 15 BLHS 2015 |
3. Ví dụ minh họa
A chĩa súng vào B và bóp cò nhưng đạn không nổ, sau đó A dừng lại.
Đây không phải là tự ý chấm dứt, mà là phạm tội chưa đạt.
V. Trách Nhiệm Hình Sự Và Giới Hạn Miễn Trừ
1. Trường hợp không có đồng phạm
Người tự ý nửa chừng chấm dứt được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm.
Tuy nhiên, nếu hành vi đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội phạm độc lập khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm về tội đó.
Ví dụ: A làm giả hồ sơ để tham ô tài sản, nhưng sau đó sợ bị phát hiện nên dừng lại.
A không bị xử lý về tội “Tham ô tài sản” nhưng vẫn có thể bị truy cứu về tội “Giả mạo trong công tác” theo Điều 359 BLHS 2015.
2. Trường hợp có đồng phạm
Theo Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/4/1989, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn cụ thể:
| Vai trò đồng phạm | Trách nhiệm hình sự khi tự ý chấm dứt | Điều kiện miễn trừ |
|---|---|---|
| Người thực hành | Được miễn trách nhiệm hình sự | — |
| Người tổ chức / chủ mưu / xúi giục | Chỉ được miễn nếu dùng biện pháp cần thiết ngăn chặn hành vi phạm tội | Phải khuyên ngăn, báo cơ quan chức năng, hoặc báo nạn nhân |
| Người giúp sức | Được miễn nếu chấm dứt việc giúp sức và có hành động tích cực ngăn chặn tội phạm | Không cung cấp phương tiện, công cụ, hoặc hỗ trợ tinh thần, vật chất |
VI. Bình Luận Và Kiến Nghị
1. Ý nghĩa nhân đạo của chế định
Chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thể hiện sâu sắc
nguyên tắc nhân đạo, khoan dung và định hướng giáo dục của pháp luật hình sự Việt Nam.
2. Những bất cập trong thực tiễn áp dụng
Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp tòa án đánh giá chưa thống nhất giữa “tự ý” và “bị buộc”.
Việc chứng minh “tự nguyện” vẫn phụ thuộc nhiều vào nhận định chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng.
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
- Cần ban hành án lệ làm rõ tiêu chí nhận diện “tự ý chấm dứt”.
- Tăng cường hướng dẫn thực tiễn từ TAND Tối cao cho các trường hợp đồng phạm.
- Bổ sung nội dung này trong giáo trình Luật Hình sự phần chung và các nghị quyết hướng dẫn mới.
VII. Kết Luận
Chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một minh chứng điển hình cho tính nhân đạo, khoan dung và định hướng giáo dục của pháp luật hình sự Việt Nam. Thông qua việc ghi nhận khả năng miễn trách nhiệm hình sự đối với người có ý định phạm tội nhưng đã chủ động dừng lại trước khi hoàn thành hành vi phạm tội, thể hiện quan điểm khuyến khích sự hối cải, tự giác ngăn chặn hậu quả nguy hiểm cho xã hội, đồng thời mở ra cơ hội hoàn lương cho người vi phạm. Tuy nhiên, việc áp dụng chế định này đòi hỏi sự phân tích khách quan và cẩn trọng, bởi ranh giới giữa “tự ý chấm dứt” và “bị buộc phải chấm dứt” là hết sức mong manh, phụ thuộc vào yếu tố ý chí và điều kiện thực tế của từng trường hợp cụ thể.
Tài Liệu Tham Khảo
- Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao.
- Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao.
- Đỗ Văn Đại (Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb Hồng Đức, 2019.
- Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.